Hồi trẻ có tên là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành. Khi hoạt động ở nước ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh. Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình trí thức nghèo, gốc nông dân. Thân phụ của Người là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng ra làm việc cho triều Nguyễn, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn thì bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân nên ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp. Thân mẫu của Người, cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều; bà tính tình hiền hậu đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm đều tham gia phong trào chống thực dân Pháp.
Quê hương của Người (làng Kim Liên, quê nội liền kề với làng Hoàng Trù quê ngoại, đều thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), trong lịch sử dựng nước của dân tộc đây là một địa phương giàu truyền thống đấu tranh gian khổ, chống các điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, hết hạn hán với gió Tây gào rú đến bão táp, lũ lụt trắng đồng. Quê hương Nghệ An của Người (nằm trong vùng Nghệ Tĩnh nói chung) cũng là một vùng đất có truyền thống đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm xuyên qua chiều dài lịch sử giữ nước của dân tộc. Thừa hưởng những ảnh hưởng tốt đẹp của môi trường gia đình và quê hương, ngay từ lúc còn nhỏ. Người đã sớm bộc lộ lòng yêu nước, thương đồng bào.
Người rất khâm phục cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885-1896); phong trào Đông Du của Phan Bội Châu (1904-1908); cuộc vận động cải cách do Phan Châu Trinh khởi xướng (1905-1908); cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế (Hà Bắc) do Hoàng Hoa Thám đứng đầu (1885-1913). Nhưng vượt qua những hạn chế của các nhà yêu nước đi trước, với ý chí mãnh liệt và quyết tâm sắt đá, năm 1911, Người quyết định vượt biển sang phương Tây - quê hương của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, nơi có nền khoa học và kỹ thuật phát triển, để thực hiện mục đích ham muốn tột bậc của đời mình là giành độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào. Vốn có tinh thần yêu nước thương dân nồng nàn, gắn bó sâu sắc với những truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương, gia đình, dân tộc; lại có một vốn văn hoá rất cơ bản của phương Đông và phương Tây, thu nhận được qua sự giáo dục gia đình và nhà trường, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành trước khi xuất dương tìm đường cứu nước đã có thời gian học tại các trường học do chính quyền thực dân Pháp mở tại Vinh, Huế nên có điều kiện chủ động và nhanh chóng hòa nhập vào xã hội phương Tây tìm hiểu thấu đáo và thông cảm sâu sắc với cuộc sống các dân tộc bị áp bức từ châu Âu sang châu Á, từ châu Phi đến châu Mỹ. Cuộc khảo sát dài ngày và phong phú đã giúp cho nhận thức của Người về kẻ thù, về tình nhân loại kết hợp với hữu ái giai cấp, về sức mạnh đoàn kết chiến đấu, v.v… vượt qua phạm vi Quốc gia để vươn tới tầm cao thế giới. Đó là nền tảng để Người (từ năm 1919 có tên là Nguyễn Ái Quốc) nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý của thời đại.
Hoạt động đầu tiên có tiếng vang lớn của Người trên đất Pháp là gửi tới Hội nghị Versailles (Vecxay) của các nước đế quốc mới đánh bại Đức trong chiến tranh thế giới I (1914-1918) bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam (ngày 18 tháng 6 năm 1919). Yêu cầu chính đáng trên không được giải quyết làm cho Người thêm nhận rõ: ''Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”.
Chính vào lúc đó, khi phong trào cách mạng của nhân dân Pháp đang dâng cao dưới ảnh hưởng tốt đẹp của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và thông qua những đại biểu của những người cùng khổ nhất của nước Pháp, Người đã bắt gặp chân lý cứu nước là chủ nghĩa Mác-Lênin. Luận cương của Lênin về vấn đề thuộc địa với những vấn đề đặc biệt quan trọng về con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc; về quyền bình đẳng tự do thật sự giữa các dân tộc; về tình đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước v.v... đã làm cho Người vô cùng phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng (1920). Từ đó, Người tin theo Lênin và tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản). Từ một người yêu nước mãnh liệt, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, và là một trong số những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp (1920).
Từ năm 1921 đến 1930, với những hoạt động phong phú và sáng tạo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc v.v... vừa ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận cách mạng vừa tham gia các hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản; viết sách, báo, mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam một cách hệ thống... Người đã xuất hiện trên vũ đài chính trị thế giới với tư cách một chiến sĩ cách mạng Quốc tế và là người sáng lập ra chính đảng kiểu mới ở Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là thời kỳ hình thành về cơ bản đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-LÊnin vào những điều kiện cụ thể của Việt Nam, kết hợp đúng đắn sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; Người khẳng định cách mạng Việt Nam từ đây coi chủ nghĩa Mác-Lênin là cẩm nang thần kỳ, là kim chỉ nam định hướng, là Mặt trời soi sáng con đường dân tộc Việt Nam đi tới thắng lợi, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Thời kỳ này, Người đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa (1921), trực tiếp thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (1925); ra báo Người cùng khổ (Le Paria, 1922), báo Thanh niên (1925); viết các tác phẩm Con rồng tre (1922); Bản án chế độ thực dân Pháp (1925); Đường cách mệnh (1927).
Từ sau khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (3 - 2 - 1930), trong những năm tiếp theo của thập kỷ 30 đến những năm của thập kỷ 40, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động Cách mạng, có thời gian bị bắt và bị đầy trong nhà lao đế quốc Anh ở Hồng Kông (1931 - 1932), Người vẫn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước, kịp thời đóng góp với Trung ương Đảng ở trong nước nhiều ý kiến cụ thể để chỉ đạo thực hiện tốt đường lối của Đảng ngày 8 tháng Hai 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người trở về Tổ quốc. Chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung ương Đảng điều chỉnh chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc là trên hết, tạm thời gác lại nhiệm vụ cách mạng ruộng đất; thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) vào ngày 19 tháng 5 năm 1941. Bằng tầm cao trí tuệ, với hoạt động đổi mới và sáng tạo Người đã vận dụng thành công học thuyết Mác-Lênin về Vấn đề dân tộc và thuộc địa vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng 10 Nga rung chuyển địa cầu (1917) đưa tới thắng lợi của Cách mạng tháng 8 (1945) có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Người khẳng định: “Đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam mà cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa.
Trong thời gian chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức để tiến tới Cách mạng tháng Tám, Người đã lược dịch cuốn Lịch sử Đảng cộng sản Bolshevik Liên Xô; biên soạn một số tài liệu như Cách đánh du kích, cách huấn luyện cán bộ quân sự, ra báo Việt Nam đọc lập (Tên gọi tắt là Việt Lập). Người cũng đã chỉ thị tổ chức đội tự vệ vũ trang ở Cao Bằng.
Tháng 8 - 1942, với tên gọi là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam bên đó và lực lượng của Đồng minh vừa qua biên giới, Người đã bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam hơn một năm, giải tới giải lui qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong hoàn cảnh đó, Người đã viết tập thơ chữ Hán Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù), một tác phẩm lịch sử và văn học vô giá, khẳng định tinh thần bất khuất lạc quan cách mạng và ý chí cách mạng tiến công của một nhà yêu nước vĩ đại, của một người cộng sản vĩ đại.
Thất bại trong âm mưu sát hại người chiến sĩ cách mạng kiên cường, chính quyền Tưởng phải trả lại tự do cho Người (tháng Chín 1943). Chưa có điều kiện về nước Người đã tranh thủ thời gian tiếp xúc với các tổ chức chống Nhật, chống Pháp của người Việt Nam ở Trung Quốc, đồng thời chắp lại liên lạc với Trung ương Đảng ở trong nước. Tháng 7 năm 1944, Người về đến Pắc Pó (Cao Bằng) sau đó về Tân Trào (Tuyên Quang) trực tiếp lãnh đạo cách mạng đưa tới thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Nhưng sau ngày Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945) tình hình nước nhà như ngàn cân treo sợi tóc, vì giặc đói giặc dốt, giặc ngoại xâm. Theo lời kêu gọi của Người, toàn thể dân tộc Việt Nam: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu trở lại đời nô lệ” đã vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Với tinh thần Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết. Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết; Thành công, thành công đại thành công. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng do Hồ chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội địa cầu (1954). Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ tượng trưng cho lòng dũng cảm, quyết tâm không gì lay chuyển nổi trong cuộc đấu tranh tự giải phóng giành độc lập tự do của các dân tộc thuộc địa. Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành được thắng lợi, giải phóng miền Bắc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền Nam, Bắc tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.
Hồ Chí Minh là linh hồn hai cuộc kháng chiến cứu nước của toàn dân tộc, Người đã chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mạnh chính nghĩa của thời đại và truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam nhằm tạo lên sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh thắng bọn xâm lược. Đó chính là quy luật của chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc.
Đặc trưng tư tưởng Hồ Chí Minh là kết hợp nhuần nhuyễn triết học phương Đông với triết học phương Tây, nắm vững nền văn hóa dân tộc và tiếp thu một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Hồ Chí Minh trở thành một biểu tượng và một hiện thực của sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải thể chế độ thực dân trên phạm vi toàn thế giới; đồng thời cũng là biểu tượng và hiện thực cho những lý tưởng - khát vọng: độc lập cho mỗi dân tộc; tự do cho mỗi người; hạnh phúc cho nhân dân mỗi nước. Sau kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân dân hai miền Nam - Bắc tiếp tục cuộc đấu tranh để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà. Sớm phát hiện đúng đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa[1]; Người đã lãnh đạo khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa, từng bước vững chắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp. Hồ Chí Minh là người đầu tiên vạch ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và phác thảo mô hình xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo Người, Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn, việc làm, được ấm no và sống một cuộc đời hạnh phúc[2]. Nêu cao tư tưởng đạo đức; trung với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết, Người đã trở thành một mẫu mực đạo đức không riêng cho nhân dân Việt Nam, mà cho cả nhân loại yêu chuộng hòa bình, tiến bộ. Nhà sử học Mỹ J.Stenson đánh giá: "Thế giới đang đứng trước thảm họa tha hóa về vật chất, con người đang bị đẩy vào cuộc sống tiện nghi tối đa xa dần cuộc sống thiên nhiên, xa cuộc sống giữa người với người, không cần sống có đạo đức thì Người không tha hóa về vật chất, không mang tiếng về đời tư...Một số đông người đã tha hóa chạy theo cuộc sống hưởng thụ vật chất, bất chấp cả nhân phẩm đạo đức coi sự hưởng thụ là mục đích của cuộc sống, nhân loại lại tìm về tấm gương sáng ngời nhân cách của Hồ Chí Minh, một tấm gương cho mọi thế hệ tiếp sau[3].
Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đào luyện con người mới xã hội chủ nghĩa. Chiến lược trồng người cùng với việc chăm lo cho một Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước vững mạnh của dân, do dân, vì dân thể hiện khát vọng dân giàu nước mạnh xã hội văn minh của Người.
Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; tiếc rằng Người không còn sống đến ngày thắng lợi, nhưng xét về mặt lịch sử, Người là kiến trúc sư của thắng lợi đó Người dành nhiều công sức vun đắp phát triển tình hữu nghị, đoàn kết nhân loại tiến bộ nhằm biến những khát vọng của các dân tộc được làm chủ vận mệnh mình trở thành hiện thực, đồng thời khẳng định được bản sắc dân tộc của mình trong sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Hồ Chí Minh là một vĩ nhân đã tác động và thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử thế giới tiến lên phía trước trong quá trình phát triển của nhân loại. Người là vị anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam và là một danh nhân văn hóa[4]. Cống hiến to lớn, nhiều mặt của Người đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong tầm nhìn của nhân loại tiến bộ, tư tưởng, đạo đức, tư tưởng văn hóa và nhân văn của Người để lại những dấu ấn không thể phai mờ. Tư tưởng ''Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý của thời đại, ngọn cờ chiến đấu của các dân tộc bị áp bức. Phieng Sisulat (Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao Lào) khẳng định:
''Không có gì quý hơn độc lập tự do!
Một câu nói giản dị, ngắn gọn đã trở thành một câu danh ngôn mang những âm vang cộng hưởng không chỉ bó hẹp trong đất nước, con người Việt Nam mà còn là lý tưởng đấu tranh của nhân dân các nước bị áp bức bóc lột và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới”[5].
Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh trở thành niềm tự hào chung của nhân dân các dân tộc bị áp bức. Bà Marcela Lombardo - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu triết học chính trị và xã hội Mexico nhận định: ''Hồ Chí Minh đã tham gia và thúc đẩy... sự nghiệp vì hòa bình. Và như một nhà văn hóa, Người đã tham gia vào sự phát triển và truyền bá văn hóa, nhận thức được văn hóa như một kho tàng kiến thức của con người về thiên nhiên, cuộc sống, cũng như để đánh giá về sự tồn tại, mà giá trị của nó có thể tăng cường lòng tin vào tính hoàn thiện không ngừng của con người[6].
Trên mạch suy nghĩ đó đi tới một khẳng định: “… Những con người như Hồ Chí Minh ngày càng trở nên vĩ đại, vì họ là những người đã cho chúng ta lý do để sống và khả năng để thực hiện những giấc mơ của mình''[7]. Và dễ hiểu là ở giữa cơn khủng hoảng về chính trị, đạo đức, người ta lại tìm về Hồ Chí Minh vì ''Người đã để lại dấu ấn không thể sai lầm của mình để được tiếp tục theo đuổi trong các đảo lộn nhiều biến động, như Santi Mauroy (Giáo sư sử học Ấn Độ) đã khẳng định''.
Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng nhân loại, trên con đường vươn tới sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người và của mọi người, đã tìm thấy trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh một giá trị trường tồn. Đúng như ý kiến của nhà văn Úc Allan Asbolt: "Nếu chúng ta muốn đối phó một cách hợp lý và mạnh mẽ với những vấn đề mà chủ nghĩa xã hội đang gặp phải, chúng ta phải học ở Hồ Chí Minh bằng cách phát triển những phẩm chất đã thể hiện trong suốt cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài của Người: Kiên nhẫn và vững vàng theo đuổi mục đích và bình tĩnh trong những lúc khó khăn; linh hoạt về tư duy và chính trị khi xây dựng khối đoàn kết xã hội chủ nghĩa; khiêm tốn và gần gũi với nhân dân, nhất là với công nhân và nông dân; có sự đồng cảm để đạt tới sự hòa giải dân tộc, có tinh thần Quốc tế mạnh mẽ; sự sáng tạo và nhạy bén về văn hóa, một sự hiểu biết có phân tích về lịch sử, đặc biệt là về cách thức mà những biến đổi lịch sử đã diễn ra; và phẩm chất mà Hồ Chí Minh có một cách dồi dào - đó là sự lạc quan của ý chí”[8].